Nguyên nhân và cách điều trị bệnh hồng lỵ (bệnh kiết lỵ) trên lợn
Bệnh xảy ta quanh năm nhưng dễ phát nhất khi có các yếu tố stress có hại như thay đổi đàn, nhập xuất đàn, thay đổi thời tiết, thức ăn, nước uống, sai sót kỹ thuật tập ăn và cai sữa cho lợn con...
a. Nguyên nhân gây bệnh
Treponema dysenteriae (Serpulina hyodysenteriae) là vi khuẩn yếm khí Gram âm, có hình xoắn nên còn gọi là xoắn trùng, kích thước nhỏ 6 – 8,5mm, với 7 – 13 cái roi. Chúng ký sinh trong các tế bào đáy niêm mạc ruột già và ruột thừa. Treponema dysenteriae rất di động, có thể tồn tại trong phân từ 1- 2 tháng nhưng ở điều kiện môi trường bên ngoài cơ thể chúng dễ bị tiêu diệt bởi nhiệt độ cao trên 37oC, nếu không tạo được nha bào. Vi khuẩn dễ bị tiêu diệt bởi ánh sáng mặt trời, các chất sát khuẩn như : Vinadin 10%, B.K.Vet, Foocmol 1,5%, Virkon S,…
Có 2 loại Treponema (Serpulina) là T. hyodysenteriae hay còn gọi là Vibrio suis hay Vibrio coli và T.innocens hay Balantidium suis hoặc Balantidium coli. Chúng đều là những vi khuẩn chứa ARN, gen ARN đoạn 16S ding để phân biệt với các loại vi khuẩn khác.
b. Đặc điểm dịch tễ
Lợn ở mọi giống, mọi lứa tuổi đều bị nhiễm Treponema nhưng bệnh thường nổ ra ở lợn từ 1- 6 tháng tuổi với trọng lượng từ 10 – 70kg/con. Lợn già hơn thường mang trùng. Tuy nhiên ở lợn nái chửa bệnh hay phát ra vào những ngày sắp đẻ hoặc một vài ngày sau khi đẻ.
Lợn khỏi bệnh là nguồn bệnh nguy hiểm vì chúng mang trùng trong thời gian khá dài 3- 4 tháng. Vì thế bệnh rất phổ biến ở mọi nơi trên thế giới.
Bệnh lây lan chủ yếu qua đường miệng (ăn, uống)
Bệnh xảy ta quanh năm nhưng dễ phát nhất khi có các yếu tố stress có hại như thay đổi đàn, nhập xuất đàn, thay đổi thời tiết, thức ăn, nước uống, sai sót kỹ thuật tập ăn và cai sữa cho lợn con.
Những nơi bệnh phát ra lần đầu nhanh chóng trở thành dịch lớn do tính chất lây lan mạnh và rất nhanh, ở các ổ dịch này tỷ lệ chết rất cao, đặc biệt ở lợn cai sữa và ngay sau cai sữa.
Chuột, chim hoang và côn trùng là những động vật mang mầm bệnh quan trọng.
c. Biểu hiện lâm sàng
Thời kỳ ủ bệnh rất khác nhau từ 2- 27 ngày phụ thuộc vào các yếu tố stress, lứa tuổi lợn và các vi khuẩn thứ phát. Người ta cũng đã ghi nhận những lợn mang trùng tới 3 tháng sau mới phát bệnh. Tuy nhiên, thời kỳ ủ bệnh ở lợn con thường từ 10 – 14 ngày.
Bệnh bắt đầu bằng sự sốt nhẹ, 40,5- 41oC và kéo dài không lâu. Lợn bị nhiễm bệnh bồn chồn, khó chịu, hay đi lại vô hướng. Sau đó, lợn có các biểu hiện phụ thuốc vào các thể phát bệnh như sau:
Thể cấp tính
Thể cấp tính thường xảy ra ở lợn con tập ăn, cai sữa và ngay sau cai sữa.
Lợn bệnh sốt không cao 40,5- 41oC, không lâu sau đó trở lại bình thường
Tiêu chảy mạnh, không ngừng, lúc đầu phân lỏng màu xám sau chuyển sang nâu đỏ hoặc màu cà fê lẫn máu nhiều nhầy mũi. Lợn có cảm giác rất đau khi rặn ỉa.
Lợn bệnh rất khát nước, giảm và bỏ ăn
Nhiều con bị nôn hoặc có phản xạ nôn
Gầy sút nhanh, kiệt sức nhanh và đi lại loạng choạng không vững do bị ngộ độc và mất máu. Nếu không được điều trị kịp thời lợn bệnh sẽ bị chết trong vài giờ đến 1 – 2 ngày.
Thể á cấp tính (dưới cấp)
Bệnh tiến triển từ từ và thường xảy ta ở sau cai sữa, lợn vỗ béo và lợn lớn. Bệnh bắt đầu từ hiện tượng: lợn vẫn ăn uống có vẻ bình thường, nhưng sau khi xuất hiện tiêu chảy đột ngột, phân lỏng xanh xám thì lợn bắt đầu chán ăn hoặc bỏ ăn, đôi khi bị nôn. Đặc điểm giống như thể cấp tính là tiêu chảy liên tục lúc đầu lỏng sau đó phân nhiều nhầy mũi và lẫn máu, mùi tanh hôi. Tất cả lợn bệnh đều tỏ ra khát nước, gầy yếu và kiệt sức nhanh. Thân nhiệt bình thường, da nhợt nhạt, các niêm mạc mắt, miệng trắng bệch, thiếu máu, lạc và mất giọng. Mỗi ngày lợn rặn ỉa đến vài chục lần, lợn bị chết trong vòng 1- 3 tuần nếu không được can thiệp điều trị.
Thể mãn tính
Đối với lợn già có sức đề kháng tốt bệnh chuyển từ cấp tính sang thể mãn tính.
Đặc điểm của thể bệnh này là tiêu chảy xen kẽ táo bón, lợn hay rặn ỉa và khi táo bón lợn ỉa rất khó, co rúm lại, cố sức rặn phân lổn nhổn bọc nhiều nhầy mũi, thậm chí cả niêm mạc ruột rất giống phân ở dịch tả khô hoặc bệnh xoắn khuẩn thường gọi là bệnh Lepto. Tuy nhiên, phân của lợn bệnh hồng lỵ hay kiết lỵ thường có máu đen hoặc máu màu cà phê.
Bệnh kéo dài tới 2- 3 tuần thì đa số lợn bệnh tự khỏi và trở thành vật mang trùng.
d. Điều trị bệnh hồng lị
Bệnh hồng lỵ hoàn toàn có thể chữa khỏi nếu chúng ta thực hiện theo các bước sau:
Hộ lý và điều trị đàn bị bệnh
Không làm ướt thêm, lạnh thêm chồng lợn. Ngược lại cố giữ ấm, tránh gió lùa
Cho lợn nhịn đói tạm thời 12- 18 giờ, cho uống TĐG. Năm Thái 15- 20g/lợn, nhưng không cần thuốc nhuận tràng. Điện giải TĐG.Năm Thái được hoà tan vào nước uống sao cho có nồng độ là 2,5% (1lít nước cần 25g điện giải) là tốt nhất.
Sau đó, cho lợn bệnh ăn nhẹ như cháo, rau xanh dễ tiêu ,… và trong cháo nên trộn thuốc chống tiêu chảy như 10g TIC và 10g T.Flox C hoặc 10g T.Avimidin trộn với 10g T.colivit dùng cho 100 kg lợn con vừa cai sữa hoặc cho 200 kg lợn lớn từ 2 – 6 tháng tuổi, chia làm 2 lần/ ngày , dùng liên tục 2- 3 ngày.
Điều trị cho mỗi lợn bệnh bằng một trong các phác đồ sau:
Cách 1: tiêm bắp
Buổi sáng: DOC.Thái 1ml/10kgP
Buổi chiều: Tialin.Thái 1ml/10kgP
Cách 2: tiêm bắp
Buổi sáng: T.enteron 1ml/10kgP
Buổi chiều: Vidan.T 1ml/10kgP
Cách 3
1ml TTS.Năm Thái trộn với 1ml DOC. Thái cho 5kgP đối với lợn dưới 30kgP
Và cho 8 - 10kgP đối với lợn trên 30kgP/lần, dùng 2 lần/ngày
Cách 4: Nếu bội nhiễm bởi viêm ruột hoại tử thì:
Buổi sáng: Vidan.T: 1ml/10kgP hoặc T.Gastron: 1ml/10kgP
Buổi chiều: Tialin. Thái 1ml/10kgP
Tất cả các phác đồ điều trị chỉ dùng 3 ngày là khỏi bệnh.
Cách 5: tiêm bắp thuốc đặc trị bệnh hồng lỵ
Macavet 1ml/10kgP/lần ngày thứ nhất, 1ml/15kgP/lần ngày thứ hai và sau đó 48h tiêm mũi thứ 3 liều 1ml/15kgP
Cách 6: tiêm bắp
Flodovet 1ml/10kgP/lần/ngày ´ 3 ngày.
e. Phòng bệnh
Triệt để không nhập đàn lợn mới khi không nắm rõ nguồn gốc. Nếu nhập đàn phải nuôi cách ly ít nhất 15 ngày. Trong thời gian đó phải tiêm chủng chống các bệnh dịch tả, xoắn khuẩn, hội chứng PRRS và phải dùng 3 ngày kháng sinh phòng bệnh trước khi nhập đàn. Các thuốc thường dùng là: T.Colivit, T.I.C, T.Avimicin, T.Flox.C, hoặc Flumequin 20, Enro 10, NorFlox 10.
Nếu bệnh nổ ra thì tuyệt đối không xuất lợn, phải điều trị tích cực sau đó làm tẩy uế trong và ngoài khu vực chăn nuôi bằng việc phun 1% Vinadin10% hoặc 1- 1,5% B.K.Vet, hoặc 1,5% Foocmol. Sau đó đường đi lối lại được rắc vôi bột.
Lợn chết phải chôn sâu
Thường xuyên tiến hành diệt chuột, côn trùng,…
Cấm dùng chung dụng cụ dùng trong chăn nuôi giữa chuồng này với chuồng khác và nên ngâm nước vôi, xút, cresil, formol rồi phơi khô trước khi dùng.
Treponema dysenteriae (Serpulina hyodysenteriae) là vi khuẩn yếm khí Gram âm, có hình xoắn nên còn gọi là xoắn trùng, kích thước nhỏ 6 – 8,5mm, với 7 – 13 cái roi. Chúng ký sinh trong các tế bào đáy niêm mạc ruột già và ruột thừa. Treponema dysenteriae rất di động, có thể tồn tại trong phân từ 1- 2 tháng nhưng ở điều kiện môi trường bên ngoài cơ thể chúng dễ bị tiêu diệt bởi nhiệt độ cao trên 37oC, nếu không tạo được nha bào. Vi khuẩn dễ bị tiêu diệt bởi ánh sáng mặt trời, các chất sát khuẩn như : Vinadin 10%, B.K.Vet, Foocmol 1,5%, Virkon S,…
Có 2 loại Treponema (Serpulina) là T. hyodysenteriae hay còn gọi là Vibrio suis hay Vibrio coli và T.innocens hay Balantidium suis hoặc Balantidium coli. Chúng đều là những vi khuẩn chứa ARN, gen ARN đoạn 16S ding để phân biệt với các loại vi khuẩn khác.
b. Đặc điểm dịch tễ
Lợn ở mọi giống, mọi lứa tuổi đều bị nhiễm Treponema nhưng bệnh thường nổ ra ở lợn từ 1- 6 tháng tuổi với trọng lượng từ 10 – 70kg/con. Lợn già hơn thường mang trùng. Tuy nhiên ở lợn nái chửa bệnh hay phát ra vào những ngày sắp đẻ hoặc một vài ngày sau khi đẻ.
Lợn khỏi bệnh là nguồn bệnh nguy hiểm vì chúng mang trùng trong thời gian khá dài 3- 4 tháng. Vì thế bệnh rất phổ biến ở mọi nơi trên thế giới.
Bệnh lây lan chủ yếu qua đường miệng (ăn, uống)
Bệnh xảy ta quanh năm nhưng dễ phát nhất khi có các yếu tố stress có hại như thay đổi đàn, nhập xuất đàn, thay đổi thời tiết, thức ăn, nước uống, sai sót kỹ thuật tập ăn và cai sữa cho lợn con.
Những nơi bệnh phát ra lần đầu nhanh chóng trở thành dịch lớn do tính chất lây lan mạnh và rất nhanh, ở các ổ dịch này tỷ lệ chết rất cao, đặc biệt ở lợn cai sữa và ngay sau cai sữa.
Chuột, chim hoang và côn trùng là những động vật mang mầm bệnh quan trọng.
c. Biểu hiện lâm sàng
Thời kỳ ủ bệnh rất khác nhau từ 2- 27 ngày phụ thuộc vào các yếu tố stress, lứa tuổi lợn và các vi khuẩn thứ phát. Người ta cũng đã ghi nhận những lợn mang trùng tới 3 tháng sau mới phát bệnh. Tuy nhiên, thời kỳ ủ bệnh ở lợn con thường từ 10 – 14 ngày.
Bệnh bắt đầu bằng sự sốt nhẹ, 40,5- 41oC và kéo dài không lâu. Lợn bị nhiễm bệnh bồn chồn, khó chịu, hay đi lại vô hướng. Sau đó, lợn có các biểu hiện phụ thuốc vào các thể phát bệnh như sau:
Thể cấp tính
Thể cấp tính thường xảy ra ở lợn con tập ăn, cai sữa và ngay sau cai sữa.
Lợn bệnh sốt không cao 40,5- 41oC, không lâu sau đó trở lại bình thường
Tiêu chảy mạnh, không ngừng, lúc đầu phân lỏng màu xám sau chuyển sang nâu đỏ hoặc màu cà fê lẫn máu nhiều nhầy mũi. Lợn có cảm giác rất đau khi rặn ỉa.
Lợn bệnh rất khát nước, giảm và bỏ ăn
Nhiều con bị nôn hoặc có phản xạ nôn
Gầy sút nhanh, kiệt sức nhanh và đi lại loạng choạng không vững do bị ngộ độc và mất máu. Nếu không được điều trị kịp thời lợn bệnh sẽ bị chết trong vài giờ đến 1 – 2 ngày.
Thể á cấp tính (dưới cấp)
Bệnh tiến triển từ từ và thường xảy ta ở sau cai sữa, lợn vỗ béo và lợn lớn. Bệnh bắt đầu từ hiện tượng: lợn vẫn ăn uống có vẻ bình thường, nhưng sau khi xuất hiện tiêu chảy đột ngột, phân lỏng xanh xám thì lợn bắt đầu chán ăn hoặc bỏ ăn, đôi khi bị nôn. Đặc điểm giống như thể cấp tính là tiêu chảy liên tục lúc đầu lỏng sau đó phân nhiều nhầy mũi và lẫn máu, mùi tanh hôi. Tất cả lợn bệnh đều tỏ ra khát nước, gầy yếu và kiệt sức nhanh. Thân nhiệt bình thường, da nhợt nhạt, các niêm mạc mắt, miệng trắng bệch, thiếu máu, lạc và mất giọng. Mỗi ngày lợn rặn ỉa đến vài chục lần, lợn bị chết trong vòng 1- 3 tuần nếu không được can thiệp điều trị.
Thể mãn tính
Đối với lợn già có sức đề kháng tốt bệnh chuyển từ cấp tính sang thể mãn tính.
Đặc điểm của thể bệnh này là tiêu chảy xen kẽ táo bón, lợn hay rặn ỉa và khi táo bón lợn ỉa rất khó, co rúm lại, cố sức rặn phân lổn nhổn bọc nhiều nhầy mũi, thậm chí cả niêm mạc ruột rất giống phân ở dịch tả khô hoặc bệnh xoắn khuẩn thường gọi là bệnh Lepto. Tuy nhiên, phân của lợn bệnh hồng lỵ hay kiết lỵ thường có máu đen hoặc máu màu cà phê.
Bệnh kéo dài tới 2- 3 tuần thì đa số lợn bệnh tự khỏi và trở thành vật mang trùng.
d. Điều trị bệnh hồng lị
Bệnh hồng lỵ hoàn toàn có thể chữa khỏi nếu chúng ta thực hiện theo các bước sau:
Hộ lý và điều trị đàn bị bệnh
Không làm ướt thêm, lạnh thêm chồng lợn. Ngược lại cố giữ ấm, tránh gió lùa
Cho lợn nhịn đói tạm thời 12- 18 giờ, cho uống TĐG. Năm Thái 15- 20g/lợn, nhưng không cần thuốc nhuận tràng. Điện giải TĐG.Năm Thái được hoà tan vào nước uống sao cho có nồng độ là 2,5% (1lít nước cần 25g điện giải) là tốt nhất.
Sau đó, cho lợn bệnh ăn nhẹ như cháo, rau xanh dễ tiêu ,… và trong cháo nên trộn thuốc chống tiêu chảy như 10g TIC và 10g T.Flox C hoặc 10g T.Avimidin trộn với 10g T.colivit dùng cho 100 kg lợn con vừa cai sữa hoặc cho 200 kg lợn lớn từ 2 – 6 tháng tuổi, chia làm 2 lần/ ngày , dùng liên tục 2- 3 ngày.
Điều trị cho mỗi lợn bệnh bằng một trong các phác đồ sau:
Cách 1: tiêm bắp
Buổi sáng: DOC.Thái 1ml/10kgP
Buổi chiều: Tialin.Thái 1ml/10kgP
Cách 2: tiêm bắp
Buổi sáng: T.enteron 1ml/10kgP
Buổi chiều: Vidan.T 1ml/10kgP
Cách 3
1ml TTS.Năm Thái trộn với 1ml DOC. Thái cho 5kgP đối với lợn dưới 30kgP
Và cho 8 - 10kgP đối với lợn trên 30kgP/lần, dùng 2 lần/ngày
Cách 4: Nếu bội nhiễm bởi viêm ruột hoại tử thì:
Buổi sáng: Vidan.T: 1ml/10kgP hoặc T.Gastron: 1ml/10kgP
Buổi chiều: Tialin. Thái 1ml/10kgP
Tất cả các phác đồ điều trị chỉ dùng 3 ngày là khỏi bệnh.
Cách 5: tiêm bắp thuốc đặc trị bệnh hồng lỵ
Macavet 1ml/10kgP/lần ngày thứ nhất, 1ml/15kgP/lần ngày thứ hai và sau đó 48h tiêm mũi thứ 3 liều 1ml/15kgP
Cách 6: tiêm bắp
Flodovet 1ml/10kgP/lần/ngày ´ 3 ngày.
e. Phòng bệnh
Triệt để không nhập đàn lợn mới khi không nắm rõ nguồn gốc. Nếu nhập đàn phải nuôi cách ly ít nhất 15 ngày. Trong thời gian đó phải tiêm chủng chống các bệnh dịch tả, xoắn khuẩn, hội chứng PRRS và phải dùng 3 ngày kháng sinh phòng bệnh trước khi nhập đàn. Các thuốc thường dùng là: T.Colivit, T.I.C, T.Avimicin, T.Flox.C, hoặc Flumequin 20, Enro 10, NorFlox 10.
Nếu bệnh nổ ra thì tuyệt đối không xuất lợn, phải điều trị tích cực sau đó làm tẩy uế trong và ngoài khu vực chăn nuôi bằng việc phun 1% Vinadin10% hoặc 1- 1,5% B.K.Vet, hoặc 1,5% Foocmol. Sau đó đường đi lối lại được rắc vôi bột.
Lợn chết phải chôn sâu
Thường xuyên tiến hành diệt chuột, côn trùng,…
Cấm dùng chung dụng cụ dùng trong chăn nuôi giữa chuồng này với chuồng khác và nên ngâm nước vôi, xút, cresil, formol rồi phơi khô trước khi dùng.
Theo agritrade.com.vn
Không có nhận xét nào